I/.KHÁI NIỆM Ý THỨC
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tuy nhiên, không phải cứ thế giới khách quan tác động vào bộ óc người là tự nhiên trở thành ý thức. Ngược lại, ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo về thế giới, do nhu cầu của việc con người cải biến giới tự nhiên quyết định và được thực hiện thông qua hoạt động lao động. Vì vậy, ý thức ... là cái vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó”.
II/.]HAI GIAI ĐOẠN CỦA QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC
Khái niệm nhận thức:
Lý luận nhận thức hay còn gọi là nhận thức luận được hình thành từ khi triết học mới ra đời. Tất cả các trào lưu triết học đều xuất phát từ thế giới quan của mình để đưa ra những hệ thống quan điểm nhất định về vấn đề nhận thức (trả lời câu hỏi). Đó là việc con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không. Lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định con người có khả năng nhận thức được thế giới và tìm ra chân lý. Mục đích của nhận thức là tìm ra các quy luật nhằm biến đổi và cải tạo thế giới, bắt thế giới phục vụ mục tiêu, nhu cầu, nhiệm vụ của bản thân con người. Như thế cũng có nghĩa là tìm ra chân lý.
Bản chất của nhận thức là sự hiểu biết của con người về thế giới khách quan hay là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc con người ở trình độ cao. Nhận thức là một quá trình.
Để nhận thức được cần có một thế giới khách quan, một bộ óc bình thường và hoạt động lao động.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận những nguyên lý cơ bản của lý luận nhận thức sau đây:
- Phải thừa nhận rằng có một thế giới sự vật triết học tồn tại khách quan bên ngoài chúng ta và không lệ thuộc vào chúng ta. Quan điểm này nhằm chống lại chủ nghĩa duy tâm vì chủ nghĩa duy tâm không thừa nhận quan điểm này.
- Giữa hiện tượng và "vật tự nó" không có sự khác nhau về nguyên tắc. Quan điểm này khẳng định khả năng nhận thức của con người chống lại thuyết "bất khả tri". Cantơ - người theo thuyết bất khả tri - cho rằng "vật tự nó" là cái không thể nhận thức được là bản chất của sự vật.
- Nhận thức là một quá trình đi từ cái chưa biết, từ cái biết ít đến nhiều và sâu sắc hơn. Quan điểm này nhằm chống lại quan điểm của chủ nghĩa siêu hình về nhận thức. Chủ nghĩa siêu hình cho rằng nhận thức của con người là không biến đổi.
- Thực tiễn là nguồn gốc và tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Việc đưa quan niệm này vào lý luận nhận thức là đóng góp rất quan trọng của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Quá trình nhận thức:
Trong lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng cần chú ý: không được coi nhận thức chỉ một lần là xong. "Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng trở về với thực tiễn là biện chứng của qua trình nhận thức chân lý" (Lênin). Nói một cách khác quá trình nhận thức bao gồm quá trình nhận thức cảm tính và nhân thức lý tính. Trường phái duy cảm cho rằng nhận thức chỉ là nhận thức cảm tính. Họ tuyệt đối hoá nhận thức cảm tính và cho rằng chỉ những gì thông qua nhận thức cảm tính mới là chân lý. Họ đã phủ nhận vai trò của nhận thức lý tính.
Trường phái duy lý lại cho rằng chỉ có những gì thông qua nhận thức lý tính mới là chân lý. Họ đã phủ nhận vai trò của nhận thức cảm tính.
Cả hai trường phái này đều tồn tại trước triết học Mác.
Thực ra nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính chỉ là hai giai đoạn của một quá trình nhận thức mà thôi.
Nhận thức khkông phải là hành động nhất thời, làm một lần là xong, dường như lặp đi lặp lại, quay trở về chỗ xuất phát nhưng trên một cơ sở cao hơn (điểm tăng trưởng của trí thức).
1. Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính): là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức, gần liền với thực tiễn đi từ cảm giác, tri giác đến biểu tượng.
+ Cảm giác: Là hình thức đầu tiên đơn giản nhất của nhận thức cảm tính, phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của sự vật và hiện tượng. Bản chất của cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
+ Tri giác: Là sự tổng hợp những thuộc tính riêng lẻ của sự vật trong mối quan hệ hữu cơ với nhau. Cũng như cảm giác, tri giác mang tính trực tiếp.
+ Biểu tượng: Là một hình thức đi sâu vào bản chất của sự vật, biết được bản chất của chúng thông qua một tập hợp những thuộc tính. Đã bắt đầu mang tính khái quát và gián tiếp. Biểu tượng có vai trò là khâu trung gian giữa trực quan sinh động và tư duy trừu tượng.
- Nhận thức của con người về các sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh không chỉ dừng lại ở các hình thức cảm tính. Trên cơ sở những tài liệu, những dữ kiện do nhận thức cảm tính đem lại, nhận thức phát triển lên một trình độ cao hơn, nhận thức lý tính còn gọi là tư duy trừu tượng.
2. Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính): Là giai đoạn cao của quá trình nhận thức dựa trên cơ sở những tài liệu do trực quan sinh động đem lại. Tư duy trừu tượng cũng phản ánh hiện thực, nhưng là sự phản ánh gián tiếp và khái quát, và do vậy "sâu sắc hơn, chính xác hơn và đầy đủ hơn" với các hình thức cơ bản như: khái niệm, phán đoán và suy lý.
+ Khái niệm phản ánh một hoặc một số thuộc tính chung nào đó của một nhóm sự vật, hiện tượng và do đó mà bao quát nhóm sự vật, hiện tượng ấy. Khái niệm đóng vai trò rất quan trọng trong tư duy khoa học. Có thể xem các khái niệm đã hình thành như những nguyên vật liệu để tạo nên ý thức tư tưởng… Mọi khái niệm khoa học đều được hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển khoa học và thực tiễn. Trong khi nghiên cứu, vận dụng khái niệm chúng ta phải chú ý đến tính biện chứng của nó, không được coi khái niệm là cái ngưng đọng, cố định cứng nhắc và không biến đổi. Mỗi một khái niệm đều nằm trong mối quan hệ liên hệ nào đó với cái khái niệm khác trong quá trình nhận thức tiếp theo về thế giới, dẫn đến hình thành những khái niệm mới phản ánh sâu sắc hơn bản chất của sự vật.
Khi áp dụng tính mềm dẻo, biện chứng của khái niệm phải tính đến nội dung khách quan của khái niệm, nếu áp dụng một cách chủ quan, tuỳ tiện thì sẽ rời vào nguỵ biện và triệt trung.
+ Phán đoán là sự vận dụng những khái niệm trong ý thức con người để vạch ra những mặt, những mối liên hệ nào đó trong một sự vật hoặc của sự vật này với sự vật khác. Phán đoán biểu hiện của một hay nhiều thuộc tính, đặc tính, mối liên hệ nào đó của sự vật được phản ánh. Phản ánh được biểu hiện trong hình thức ngôn ngữ thành mệnh đề.
+ Suy lý: Biểu hiện tính chất gián tiếp sáng tạo của tư duy con người. Từ những khái niệm, phán đoán con người có thể suy luận và tìm ra những chân lý mới.
Nhận thức lý tính bắt nguồn từ nhận thức cảm tính, những phản ánh hiện thực một cách sâu sắc hơn, tức là có thể phản ánh sự vật, hiện tượng trong những mối liên hệ và quan hệ bản chất, mang tính quy luật. Nhưng hình thức cơ bản của nhận thức lý tính được hình thành trong quá trìnhhoạt động thực tiễn của con người, chúng không tách rời nhau, những mối liên hệ biện chứng, tác động và quy luận lẫn nhau.
* Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có những đặc điểm khác nhau:
+ Nhận thức cảm tính là sự phản ánh trực tiếp, cụ thể, sinh động các thuộc tính, các mối quan hệ của sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý tính được hình thành từ những tài liệu do nhận thức cảm tính mang lại, nó là sự phản ánh gián tiếp và mang tính trừu tượng, khái quát.
+ Nhận thức được cảm tính là sự phản ánh ban đầu mang tính chất ngẫu nhiên. Nhận thức lý tính có thể giúp nhận thức được cái bản chất tất yếu của sự vật, tính quy luật của sự vật.
+ Mối quan hệ nhận thức cảm tính và lý tính có sự thống nhất biện chứng, chúng có mối quan hệ chặt chẽ và sự tác động qua lại lẫn nhau.
- Không thể tuyệt đối hoá vai trò của bậc này để hy sinh cho bậc khác. Một nhận thức đúng đắn là phải tiến từ cảm tính đến lý tính.
- Từ nhận thức cảm tính sang nhận thức lý tính thực chất là một bước nhảy vọt. Người ta không phải ngay một lúc đã nhận thức được bản chất của sự vật mà đó là một quá trình tích luỹ lâu dài.