This is the famous Duong Thuy 's story.the story is a good love.i wish that you will read and understand it deeply.(wrtten by:konayuki) 1. Ngỡ ngàng nhập học
Cô gái Việt Nam vô cùng rụt rè xuất hiện trước cửa văn phòng giáo sư Baddley sau tiếng gõ rất khẽ. Anh chàng trợ lý có gương mặt rất sáng, mũi thanh và đôi mắt đặc biệt thông minh niềm nở mời cô vào:
“Tôi tin chắc em là Trần Vũ Thiên Kim - Anh phát âm tên cô một cách vụng về nhưng hoàn toàn duyên dáng - Em học hệ Cao học phải không? Giáo sư Baddley dặn tôi đưa em lịch học và cuốn giáo trình này”.
Kim vụt trở thành một con người khác, cô vui vẻ và dạn dĩ trò chuyện cùng người trợ lý, đôi mắt sáng long lanh nhìn cuốn giáo trình dày cộp đã được photo sẵn:
- Thật không ngờ giáo sư quan tâm đến tôi như thế - Kim siết cuốn giáo trình vào ngực như thể đấy là quyển thánh kinh làm người trợ lý bật cười - Tôi phải gửi lại anh bao nhiêu tiền photo? À mà anh tên gì? Anh có thể cho tôi địa chỉ e-mail không? Tôi xin học bổng ở một tổ chức phi chính phủ, họ chỉ cho học bổng trong một năm nhưng vì sang đây trễ do thủ tục giấy tờ phức tạp, thầy trưởng khoa nói chắc tôi đành phải kéo dài chuyện học trong hai năm. Anh không tưởng tượng được đâu, tôi khổ sở mấy ngày nay...
- Ồ! Tôi tưởng tượng được chứ! Tôi là Fernando Carvalho - Người trợ lý mỉm cười - Tôi cũng là người nước ngoài mà. Tôi đến từ Bồ Đào Nha. Tôi đã hoàn thành chương trình Thạc Sĩ cũng bằng học bổng của chính phủ nước này cách nay vài năm. Rồi giáo sư Baddley nhận tôi vào làm trợ lý chính, giờ tôi đang trong giai đoạn nghiên cứu sinh. Đây là danh thiếp của tôi, em cần hỏi gì cứ tự nhiên nhé.
Dù Kim còn muốn trò chuyện thêm tí nữa nhưng Fernando đã lịch sự mỉm cười tiễn cô ra cửa. Anh nói thêm như vừa chợt nhớ ra: “Em không phải trả lại tôi tiền photo sách đâu, coi như tôi tặng em một món quà nhỏ để chúc em can đảm lên!”. Kim thật sự cảm động, cô lắp bắp cảm ơn rồi bước giật lùi cho đến khi cánh cửa khép hẳn lại và Fernando cùng với nụ cười tươi rói của anh biến mất.
Quả là những phút giây được an ủi sau bao nhiêu sự kiện làm Kim cực kỳ bối rối, đến nỗi gặp ai cô cũng lặp lại điệp khúc: “Tôi chỉ có học bổng trong một năm mà sang đây mới biết chắc phải học những hai năm. Bạn không tưởng tượng được đâu, tôi khổ sở mấy ngày nay...”. Cô thuộc týp người sống cần có người quan tâm và đã đắm mình trong sự yêu thương của gia đình từ bấy lâu nay đến mức gần như không trưởng thành nổi. Hôm qua khi trình diện giáo sư trưởng khoa, Kim bị ông ta phán cho một câu xanh rờn: “Cô sẽ không thể hoàn thành khóa Cao học này chỉ với một năm ngắn ngủi. Thật ra điều này cũng có thể xẩy ra nếu cô đến từ một nước nào đó ở Châu Á có nền giáo dục phát triển như Singapore hay Malaysia. Đằng này cô lại... Đã vậy còn nhập học trễ nữa chứ!”. Rồi khi Kim há hốc mồm ra một cách ngu xuẩn “Vậy... vậy thầy khuyên em phải làm sao?”, ông ta nhấn mạnh “Chuẩn bị tinh thần và tài chính để nếu phải kéo dài sang hai năm thì cũng không bị hụt hẩng!”.
Thấy Kim ngơ ngẩn không buồn trả lời, ông trưởng khoa chép miệng:
- Ở những trường Đại học danh tiếng trên thế giới, đôi khi người ta cũng buộc phải cấp bằng cho những nhân vật đến từ nước ngoài vì lý do ngoại giao hay chính trị. Tuy nhiên tôi không nghĩ cô thích bằng cấp kiểu đó. Cô đã đích thân tìm học bổng sang đây, cô được trường chấp nhận cho nhập học, nên tôi đoán cô muốn có kiến thức thật sự! Thôi cố gắng xoay sở. Tôi thấy không có vấn đề gì!
Kim định nói “Dĩ nhiên, vì đó đâu phải là vấn đề của thầy!”, nhưng ông đã ra dấu tiễn cô với nụ cười nhếch môi vừa lạnh lùng vừa giễu cợt.
Kim từ văn phòng khoa Kinh Tế trên phố Manor buồn bã không muốn quay về khu học xá, cô lang thang vào trung tâm thành phố nơi qui tụ những ngôi trường trực thuộc Đại học Oxford. Sang đây Kim mới ngỡ ngàng nhận ra Đại học thuộc loại lâu đời nhất châu Âu này có đến ba mươi chín ngôi trường độc lập khác nhau gọi là “college”. Mỗi college trông cổ kính và đẹp kiêu hãnh như những tòa lâu đài với những cánh cổng bằng gỗ được chạm khắc công phu và những ngọn tháp vươn cao quyền quí. Sinh viên và cả giáo sư chạy xe đạp luồn lách vào những con đường hẹp hay những con hẻm nhỏ lót đá di chuyển từ college này sang college kia. Kim biết rồi mình cũng sẽ được vào trong những ngôi trường cổ kính này dùi mài kinh sử, cô sẽ không học cố định ở một nơi mà tùy theo từng môn sẽ đến các trường khác nhau. Kim tưởng tượng mình như Harry Potter buổi đầu ngơ ngác nhập học ở trường Phù Thủy, ngôi trường cổ kính với những lớp học bé tí, những cầu thang đá nhỏ hẹp và những hành lang dài vô định. Và quả thật, bộ phim Harry Potter được quay tại những college ở Oxford. Ở ngoài phố, Kim thấy có rất nhiều khách du lịch và những đoàn học sinh được giáo viên dẫn đi tham quan Đại học Oxford. Hẳn họ muốn gieo vào lòng những học trò nhỏ niềm hy vọng được vào học trong ngôi trường danh tiếng này. Cô thở dài, nghĩ dù mình đã được nhận vào học nhưng áp lực lớn nhất là phải đi ra với mảnh bằng tốt nghiệp. Sau này về Việt Nam với cái danh học ở Oxford mà không chìa ra được giấy tờ chứng minh chắc Kim chỉ còn nước bỏ xứ đi luôn.
Buổi tối trong khu học xá, gió gào hú không ngừng, mưa quất từng hạt nặng nề vào kính như thể muốn tìm đủ mọi cách chui vào phòng. Kim bất an chốc chốc lại đến bên cửa sổ nhìn ra ngoài trời đêm. Ánh đèn vàng cao áp đủ cho cô nhìn thấy cây cỏ oằn mình trong gió rét. Suốt đêm Kim cứ trằn trọc với câu hỏi “Làm sao có tiền để ở lại Oxford thêm một năm nữa?”. Cô đã đổ bao công sức để xin được học bổng của một tổ chức phi chính phủ và song song đó phải đáp ứng đủ yêu cầu của Đại học Oxford mới được nhận vào ngôi trường danh tiếng này. Vậy mà không lẽ phải quay về Việt Nam khi chưa hoàn thành chương trình. Bao nhiêu cố gắng lại bỏ phí đi sao? Mộng du học ở Anh đã được Kim ôm ấp hồi còn là học sinh Trung học. Cô luôn cố gắng trao dồi tiếng Anh từ những ngày đó, rồi trong suốt bốn năm Đại học, cô vẫn không ngừng truy tìm học bổng và duy trì điểm số luôn ở mức xuất sắc. Tốt nghiệp ra trường Kim vẫn chưa có cơ hội nên cô lại tiếp tục xoay xở tìm nơi cấp học bổng và xin các trường Đại học chấp nhận. Mãi đến ba năm sau khi tốt nghiệp Đại học, khi đã có một công việc thú vị trong một công ty uy tín, Kim mới hạnh phúc có được niềm vui biến giấc mơ từ thời học sinh thành hiện thực. Đó là cả một quá trình dài phấn đấu và kiên nhẫn không ngừng. Nhưng giờ giấc mơ đó chỉ mới thực hiện được một phần, quan trọng nhất là phải hoàn thành khóa học rất nặng bên đây theo đúng thời hạn một năm.
Gia đình Kim tuy rất quan trọng chuyện học nhưng không đủ khả năng để nuôi cô trong một năm sinh hoạt ở Anh, nơi có mức sống thuộc hàng đắt đỏ nhất thế giới. Lương đi làm của Kim dành dụm được sau ngày ra trường cũng chỉ đủ cho cô mua sắm đồ đạc trước khi sang đây. Gần sáng, Kim tìm ra câu trả lời: “Chỉ có một con đường: bất cứ giá nào cũng phải học xong trong một năm như người ta! Cố gắng hết sức đuổi kịp ba tuần nhập học trễ. Phải làm cho ông trưởng khoa thấy người Việt Nam cũng học hành đàng hoàng không kém ai!” rồi mệt nhoài đi vào giấc ngủ nhiều mộng mị đến mức ngã lăn xuống nền gạch lạnh như băng. Khu học xá đã tắt lò sưởi trung tâm để tiết kiệm nhiên liệu.
Oái ăm, buổi học đầu tiên của Kim rơi vào sáng thứ bảy, vào cái ngày mà ai cũng cuộn tròn trong chăn ngủ vùi lười biếng. Ông giáo sư bận quá nhiều việc nên chỉ dạy vào giờ này. Cô khoác áo lạnh dày cộp, ôm cặp, xách dù mò mẫm bước ra đường. Trời hãy còn tối, không một bóng người dù đã bảy giờ ba mươi sáng. Các cửa hàng đóng cửa im lìm chìm khuất trong màn đêm. Kim bước lên xe bus và là người khách duy nhất trên tuyến đường chạy vào trường. Môn này cô học ở một cơ sở hiện đại nằm gần ga, không nằm trong trung tâm thành phố cổ kính. Khi bus dừng thả người khách cô đơn xuống trước khuôn viên khoa, mặt trời cũng vừa hé bức màn dày màu xám ló ra e thẹn. Kim đột nhiên thấy phấn chấn hơn, cô ngước nhìn cảnh bình minh lên với ánh hồng pha cam đẹp lạ lùng rồi mạnh dạn lần đầu bước chân vào giảng đường Oxford, nơi được biết bao người trẻ ao ước. Môn này đã bắt đầu được hai buổi và thu hút khá đông sinh viên nước ngoài. Tụi Ý ăn mặc diêm dúa, một cặp người Nga tóc hung ngồi đầu bàn, ba người nói tiếng Tây Ban Nha, vài đứa sinh viên Anh mặt đầy tàn nhang đang ngáp to như trực thăng kêu. Tất cả đều có vẻ không hài lòng thậm chí là phẫn nộ vì phải đi học vào ngày cuối tuần.
Đúng tám giờ trợ lý Fernando đến phát tài liệu và vào lúc Kim hồi hộp nhất, giáo sư Baddley xuất hiện. Sẽ chẳng bao giờ cô có thể quên giây phút ấn tượng đó, một người đàn ông mập mạp, tóc húi cua, mặc chiếc áo len màu xanh thủy thủ có nụ cười hiền như bụt đang ngồi trên một chiếc xe lăn bằng điện dần dần tiến vào lớp. Giáo sư Baddley trứ danh đây sao? Kim ngỡ ngàng. Ông là người khuyết tật, chiếc xe của ông phát ra tiếng “rè rè” làm cô bối rối. Xe chạy ngang qua chỗ Kim, theo phản xạ tự nhiên cô đứng dậy cúi đầu chào giáo sư kính cẩn. Hành động lễ phép này làm sinh viên trong lớp hơi ngạc nhiên vì bọn chúng vẫn đang vô tư nhai kẹo cao su. Nhưng giáo sư không lấy đó làm lạ. Ông gật đầu chào lại và tiếp tục lái xe tiến đến bàn giáo viên. Sau vài phút hướng dẫn, giáo sư điều khiển xe lui xuống, nhường bục giảng lại cho một sinh viên người Tây Ban Nha. Mỗi người trong lớp phải soạn bài và giảng lại cho các bạn đồng môn. Vai trò của giáo sư chỉ hướng dẫn chung và chấm bài tiểu luận.
Cuối buổi học giáo sư Baddley lái xe lăn đến bên Kim cười đôn hậu: “Em là người Việt Nam phải không? Tôi có nghe thầy trưởng khoa nói về trường hợp nhập học trễ của em. Hiếm khi có sinh viên từ Việt Nam. Cố gắng nhé. Cần gì cứ đến văn phòng của tôi, nếu tôi không có ở đó thì cứ nhờ trợ lý Fernando”. Kim xúc động lí nhí cảm ơn rồi nép người nhường đường cho ông lái xe ra thang máy.
Trời đang mưa. Lại mưa. Những cơn mưa trứ danh của Anh, mạnh mẽ, dai dẳng, rơi mãi không ngừng. Gió thổi những cơn gió rét quất vào mặt Kim thật thô bạo. Cô quấn khăn vào cổ chặt đến mức gần nghẹt thở phải ho khan lên. Tụi sinh viên Oxford thích đi xe đạp và khóa xe đầy đường nhưng Kim biết mình chỉ ở đây không lâu nên chẳng cần mua xe đạp làm gì. Gặp lúc xe hư còn khổ thêm vì làm sao tìm được những chỗ sửa xe ngoài góc đường như bên Việt Nam. Ở trạm xe bus chỉ có vài người đứng chờ, miệng nhai nhóp nhép chút gì đó. Bụng Kim cũng cồn cào, cô mở cặp tìm mấy viên kẹo nhai cầm hơi. Đã một giờ trưa. Lúc xe bus chở Kim chạy ngang bãi đậu xe cô thấy giáo sư Baddley điều khiển xe lăn của mình chạy đến một chiếc xe hơi rồi loay hoay tìm cách chui vào đó. Thì ra ông tự lái xe đi dạy.
Sau buổi học đầu tiên với người thầy dễ mến dù không có khả năng tự đi trên đôi chân của mình, Kim thất vọng nhận thấy những giáo sư còn lại tuy lịch sự nhưng khá lạnh lùng và gần như vô cảm với những khó khăn của người khác. Đa phần họ đều trông rất sang trọng với những bộ complet cắt may vừa khéo. Khoa Kinh Tế, giáo sư ngoài những giờ lên lớp còn hợp tác làm tư vấn cho các công ty và tham gia nhiều dự án đầu tư với các nước giàu. Kim hay nhòm ngó sang những khoa “hiền lành” như Nông Nghiệp, Lịch Sử hay Sinh Vật để ao ước học với những vị giáo sư mộc mạc, giản dị và nhiệt tình. Fernando bảo cô đừng trông đợi sự tử tế của bất kỳ ai. Cứ cố gắng hết sức rồi thì sẽ có một “quới nhân” phù hộ. Giáo sư Baddley là một người như thế. Fernando nói ngay trong cộng đồng Châu Âu, những nước giàu cũng hay xem thường những nước kém phát triển hơn. Bồ Đào Nha là một nước tụt hậu nhiều so với Châu Âu, nên bản thân anh trước kia cũng gặp khá nhiều khó khăn. Nhưng giáo sư Baddley vẫn đối xử với Fernando một cách hoàn toàn công bằng. Ông đánh giá anh qua thái độ cần mẫn, nghiêm túc trong công việc và qua tinh thần cầu tiến của một thanh niên đến từ một đất nước còn nhiều rào cản. Khi Fernando kể lại với Kim điều này, anh hơi ngượng. Cô cười, làm bộ trêu nhưng thực lòng thấy tự hào được anh chia sẻ: “Chà! Em thấy giáo sư biết nhìn người ghê!”. Fernando hơi đỏ mặt, đôi mắt thông minh ánh những tia lém lỉnh: “Đến từ những nước nhỏ thì chỉ có một con đường là nỗ lực để đừng bị người ta xem thường!”
Nhiều đêm, khi gió không chịu ngủ cứ thang lang luồn lách vào những cành cây khẳng khiu làm chúng phải kêu lên răng rắc, Kim trằn trọc. Những người trẻ đến từ một nước nhỏ xíu gần như không tên tuổi như cô không phải chỉ muốn “đừng bị người ta xem thường” mà còn làm sao để được người ta tôn trọng. Nhưng quả thật “vươn lên” là điều ai cũng muốn nhưng không phải cứ muốn là được như câu tục ngữ tự phỉnh mình “Vouloir c’est pouvoir” [Muốn là được] của dân Pháp. Học ở Oxford dù có cố gắng “lấy cần cù bù thông minh” hay “năng động - sáng tạo” kiểu gì thì so với sinh viên Anh, Mỹ hay các nước Châu Âu khác, Kim cũng chỉ là người đến từ một nước có nền giáo dục không được phát triển như ông trưởng khoa đã lo ngại. Những lúc phải nộp bài theo nhóm, bị chúng bạn tìm cách né tránh không cho cùng gia nhập, Kim vừa chán nản vừa phẫn nộ. Mấy đứa sinh viên nước ngoài - mà đa phần là dân châu Mỹ La Tinh và châu Á - đành tụ lại thành một nhóm “hợp chủng quốc”. Và với vốn kiến thức rất “ô hợp”, thường nhóm không bao giờ có được điểm cao và luôn nhận được những nhận xét rất khắc nghiệt của giáo sư. Một lần Kim ao ước: “Giá mà tụi sinh viên bản địa chịu “gánh” dùm mỗi nhóm một vài đứa nước ngoài thì điểm số mình không đến nỗi lẹt đẹt như vậy!”. Fernando đã nổi giận phản đối: “Với ý nghĩ đó, tự em đã xếp mình vào hạng làm gánh nặng cho người khác. Nếu muốn được nhìn nhận, phải có lòng tự trọng chứ!”. Lần đó cảm thấy bị “xúc phạm ghê gớm” Kim thề sẽ không bao giờ nhìn mặt Fernando nữa. Nhưng rồi cô chột dạ nhớ lại, ngày trước học Đại học ở Việt Nam, cô vẫn có thái độ xem thường những bạn từ các tỉnh xa. Cô nghĩ họ làm sao giỏi tiếng Anh bằng mình, làm sao năng động được trong điều kiện nghèo nàn sách vở, làm sao tiếp cận nổi giới doanh nghiệp vì có quen biết ai. Những người bạn đó cũng không được giới thành phố như Kim đón nhận, họ tự chơi với nhau, tự giúp nhau học rồi đi tìm việc để trang trải cho cuộc sống xa nhà. Chẳng bao giờ cô bận tâm khi nghĩ về những khó khăn của họ. Giờ đây sang Oxford, thấy khoảng cách giữa “người ta” và “mình” xa vời vợi, như thể người Sài Gòn tự nhận văn minh nhìn vào một cô nàng nào đó từ núi rừng mọi rợ bước ra đòi hội nhập.
Trong khu học xá gồm nhiều căn nhà cổ theo lối kiến trúc Victoria trên phố Woodstock, Kim ngụ trong một căn nhà có mười hai nhân khẩu. Sang Oxford cô mới kinh ngạc nhận ra những hình ảnh các ký túc xá to lớn, rộng rãi thường thấy trên phim hoàn toàn chỉ thích hợp cho những trường Đại học ở Mỹ hay các thành phố hiện đại khác ở Anh. Oxford trung thành với lối kiến trúc cổ và tự hào vì điều đó. Những dãy nhà cổ bé tí dễ thương với những căn phòng cũng nhỏ xíu nằm trên những con phố xinh đẹp như Woodstock, Walton, St John... chính là những khu học xá dành cho sinh viên. Trong căn nhà chung của Kim, ngoài cô còn có Yutaka người Nhật và Lệ Chi người Trung Quốc là sinh viên nữ đến từ châu Á. Thời gian đầu có vẻ hút nhau vì cùng màu da vàng, ba người hay ăn cơm chung trong nhà bếp dưới tầng một, nhưng vài tuần sau Lệ Chi tự động lảng tránh nhóm các cô gái châu Á để hòa mình nhanh chóng vào thế giới châu Âu.
Lệ Chi xinh xắn nhất, trẻ nhất, mới là sinh viên dự bị Đại học gọi là “A level”, nhưng cực kỳ chịu chơi. Lắm hôm khi đi xuống bếp pha trà, Kim giật mình đụng mặt cô bé từ phòng tụi Tây Ban Nha đi ra lúc đêm khuya. Kim đã thử khuyên Lệ Chi nhưng cô bé khó chịu ra mặt nên Kim quyết định “mạnh ai nấy sống”. Nghe đâu Lệ Chi là con một, cha là thương gia, mẹ trước kia là diễn viên, gia đình giàu có nhưng không hạnh phúc. Yutaka trái ngược hoàn toàn với Lệ Chi, cô trạc tuổi Kim, tính chững chạc và không nhan sắc nên sống khép kín. Yutaka học ngành khảo cổ, một ngành luôn tìm về với quá khứ nên trông cô cũng rất lạ. Bọn Tây ngại tính giữ kẽ của Yutaka nên thường cũng chỉ giao thiệp với Kim và Lệ Chi. Xem chừng họ quí Kim hơn vì cô thân thiện nhưng biết dừng đúng lúc, không quá đà và “dễ dụ” như cô bé Trung Quốc. Nhiều lúc Kim lắc đầu cười cho những ngộ nhận, trước kia cô cứ tưởng phụ nữ Nhật rất quậy còn con gái Trung Quốc đoan trang hơn.
Sang đến cuối tháng mười, Kim vui mừng đón một đồng hương mới từ Việt Nam sang, chị là giáo viên một trường Đại học, sang tu nghiệp theo chương trình hợp tác với khoa Hàng Hải, sẽ chỉ ở Oxford bốn tháng. Mấy ngày đầu Thúy Hà phải nhờ Kim dẫn đi giới thiệu trường
và giúp làm một số giấy tờ. Kim ngỡ ngàng nhận ra Thúy Hà hoàn toàn không hợp với mình. Chị nói tiếng Anh chưa rành nhưng hay ra vẻ ta đây, thích lên giọng đàn chị dù chỉ hơn Kim một tuổi. Kim thường nhìn cái cách “dốt mà làm như hay chữ” của Thúy Hà mà ngẫm đến lời giáo sư trưởng khoa: “Ở những trường Đại học danh tiếng, đôi khi người ta cũng buộc phải cấp bằng cho những nhân vật đặc biệt vì lý do ngoại giao hay chính trị”.
Chán thực lực của Thúy Hà đã đành, Kim còn bất mãn với tính nết của cô bạn đồng hương. Có tí nhan sắc và dù đã có chồng với một con trai hai tuổi, Thúy Hà vẫn lúng liếng đưa tình với tất thảy bọn con trai ở đây, dù da đen hay da trắng, miễn vạm vỡ và đẹp trai là được. Cái vẻ lẳng lơ lộ liễu như Thị Mầu của Thúy Hà làm Kim xấu hổ khi có ai đó hỏi “Bạn và Thúy Hà cùng là người Việt Nam hả?”.
Kim thất vọng nghĩ mình tìm không ra một người bạn tâm giao ở đây, trong lớp bị lạc lõng đã đành, về khu học xá cũng chỉ là những mối quan hệ xã giao. Có thể bọn Tây không lạnh lùng, thậm chí còn sẵn sàng giúp đỡ, nhưng bản thân họ cũng luôn bận rộn, mà Kim thì thấy thật tự ti. Vài anh chàng người Anh đẹp trai như hoàng tử William, chắc xuất thân từ gia đình quyền thế, đôi khi làm Kim rụng tim nhưng cô biết họ không dành cho mình. Cũng có chàng xấu trai và mặt đầy tàn nhang, nhiều lúc Kim muốn kết thân nhưng họ lại có vẻ mặc cảm. Những anh chàng nước ngoài khác đến từ khắp nơi trên thế giới, đủ mọi màu da, sang hèn các loại, đẹp trai cỡ Brad Pitt không thiếu mà ngáo ộp như một chàng Ivan nông dân cũng rất nhiều. Ai cũng “thủ”, tự tôn, tự ti rộn cả lên. Rốt cuộc, Kim kết luận: “Đừng mơ mộng gì nữa!”
Từ ngày bị Fernando nói thẳng đến mức tự ái không thèm nhìn mặt anh, Kim tìm ra nguồn khác để trút những than thở của mình. Cô hay viết email về kể khổ và nhận được những lời động viên của bạn bè bên nhà. Tuy nhiên họ thường làm cô khó chịu. Có người vô tư hô khẩu hiệu: “Người Việt Nam mình ở đâu cũng giỏi!”. Người thì tin tưởng cô tuyệt đối: “Kim phải đứng nhất lớp đó nhé!”. Kẻ khác thuộc hạng “ếch ngồi đáy giếng”, chúc cô một câu xanh lè: “Học giỏi cho tụi Tây lé mắt luôn!”. Kim bực mình nghĩ lỗi này do các phương tiện truyền thông chỉ đua nhau ca ngợi những gương mặt Việt Nam thành công ở nước ngoài, rồi báo chí hè nhau hoan hô các học sinh - sinh viên đoạt giải thưởng và các huy chương quốc tế. Nhưng những trường hợp đặc biệt này chiếm bao nhiêu phần trăm? Còn bao nhiêu du học sinh học hành lẹt đẹt, ngoại ngữ lõm bõm, cày ngày cày đêm cũng chỉ mong vượt qua được ngưỡng không bị điểm liệt sao họ không đưa tin? Rồi chịu khó lên mạng Internet mà xem, ở khắp nơi trên thế giới còn bao nhiêu sinh viên Việt Nam bế tắc đến nỗi phải vào bệnh viện tâm thần hay thương tâm nhất là tự hủy mình, sao báo chí không lên tiếng? Kim căm ghét cái thói sĩ diện và hay ca ngợi của dân mình. Hay là càng tự ti nên mới càng tự tôn, dạng như Thúy Hà, giáo viên Đại học đó?
2. Kẻ gây thù chuốc oán
Nắng vàng trong vắt nhẹ nhàng đậu trên vai Kim. Một ngày thật hiếm hoi thấy bầu trời trong xanh hơn. Kim rảo bước vào trường qua cánh cổng gỗ xưa cũ và uy quyền. Cô có hẹn đến văn phòng của giáo sư Baddley. Giáo sư đón cô bằng nụ cười thân thiện nhưng Kim vẫn thấy hết sức hồi hộp.
Giáo sư hỏi:
- Bài tiểu luận này em có nghĩ rằng đã làm hết sức mình chưa?
- Dạ... dạ... - Kim cố nén trả lời thật nhỏ nhẹ - Dạ rồi!
- Em lấy thông tin từ đâu? - Giáo sư hiền lành nhìn Kim đang mướt mồ hôi, cười khích lệ nhắc - Hít sâu, thở đều!
- Từ Internet, từ các sách em đã ghi vào tiểu luận mục “Tham khảo”, và từ...
- Từ đâu?
- Từ... Fernando Carvalho, trợ lý của thầy - Kim lúng túng thú nhận, cô chợt nhớ mình chưa trả tài liệu cho anh từ dạo không nhìn mặt nhau đến nay - Có vấn đề gì không ạ? Thông tin đó Fernando có được từ kỳ thực tập tại công ty Euroexport cách nay ba năm.
- Không sao. Tôi chỉ muốn biết em có năng động trong việc tìm dữ liệu không. Nhân tiện - Giáo sư Baddley cười ngụ ý - Fernando thường xuyên giúp em chứ? Không phải chỉ có môn của tôi mà những môn khác nữa chứ?
Kim đỏ mặt, cô không biết nói sao. Cuối cùng cô thú nhận hai đứa có một vài tranh luận trong phương pháp học nên tạm đang trong thời gian suy nghĩ xem ai đúng. Baddley gật gù nhận xét:
- Fernando là một thanh niên “được” lắm đó. Anh ta cũng có vài điểm giống em, cùng là người nước ngoài, cùng hiếu học, cùng rất tử tế.
Kim chờ giáo sư khen thêm nhưng đột nhiên ông quay lại đề tài chính. Ông nhận xét bài tiểu luận của Kim thiếu nhiều chi tiết quan trọng, cách viết khó hiểu, trình bày chưa chuyên nghiệp. “Cách trình bày cũng quan trọng không kém phần nội dung - Giáo sư chân thành khuyên - Em nên nhờ Fernando chỉ cách cho. Sau này làm luận văn tốt nghiệp người ta còn đòi hỏi cao hơn!”. Kim gục gặc đầu ra vẻ đồng ý. Giáo sư khuyên thêm Kim khi cô khoác áo đứng dậy: “Em cũng nên nhanh chóng tìm đề tài làm luận văn đi. Nếu muốn tốt nghiệp chỉ trong một năm em phải làm việc cật lực hơn và phải có phương pháp”. Kim lại gật đầu lia lịa như một con rối nhưng cô không dám hỏi “Ai sẽ chỉ cho em những phương pháp học tập và nghiên cứu có hiệu quả đó? Em đến từ Việt Nam mà!”. Giáo sư đã lăn xe tiễn Kim ra cửa, cô lấy hết can đảm ngoái đầu lại:
- Giáo sư! Em...
Ngay khi Kim còn đang ấp úng và đứng dùng dằng chân trong chân ngoài ngay cửa phòng giáo sư Baddley, Fernando xuất hiện. Anh làm ra vẻ không nhìn thấy Kim nên cô cũng lúng túng cố phớt tỉnh. Cuối cùng giáo sư phải lên tiếng “Hai người không quen nhau sao?” rồi nhìn Fernando và Kim đang gườm gườm chào nhau lí nhí. Người đàn ông có nụ cười hiền như bụt lắc đầu ngao ngán: “Những người trẻ...”. Kim ngơ ngác nhìn ông rồi quay đầu hấp tấp bỏ đi. Sao giáo sư lại nói một câu không ăn nhập gì hết.
Tối đó Fernando đột ngột ghé vào khu học xá của Kim khi cô đang đầu bù tóc rối vừa chiên khoai tây vừa chấm mút với cá hộp trong căn bếp tập thể sặc mùi dầu mỡ. Sốt cà đỏ lem luốc còn đọng lại trên mép cô làm anh bật cười rút khăn tay lau cho cô một cách chăm chú. Bọn bạn cùng ngồi ăn trong bếp chứng kiến cảnh này nhìn nhau ngỡ ngàng: “Cô nàng Việt Nam tưởng hiền lành này có bạn trai mà hồi nào đến giờ giấu kín!”. Kim quê nhất là ánh mắt thoạt ngạc nhiên rồi nhanh chóng giễu cợt “Vậy mà cũng bày đặt làm như chính chuyên lắm!” của Thúy Hà và Lệ Chi. Kim kinh ngạc đến nỗi đờ người ra không phản ứng bất cứ hành động nào. Thậm chí khi Fernando cầm tay lôi cô lên phòng, Kim cũng lê gót theo anh như kẻ mộng du. Anh nhìn ngó săm soi khắp căn phòng dù bé tí nhưng không ngăn nắp rồi lục tung sách vở giấy tờ bề bộn trên bàn cô một cách bất lịch sự.
- Góc học tập của em là thế này đó hả? Không thể nào ngờ một cô gái trẻ trung như thế này mà có thể ở được trong một căn phòng kinh khủng như thế ấy. Chả trách học nhiều mà vẫn không hiệu quả! - Fernando gắt, giọng bất bình mà Kim vẫn chưa kịp tỉnh cơn mê, cô ấp úng chẳng nói được câu gì - Đã không có phương pháp mà còn tự ái cao không chịu nghe lời người đi trước! Có một người đầy kinh nghiệm ở đây mà không biết tận dụng! Sĩ diện hão! Nhảm nhí!
- Hả? - Kim bắt đầu ý thức được chuyện gì đang xẩy ra - Ai khiến anh vào phòng tôi mạt sát chứ? Tôi không cần anh!
Fernando đay lại:
- Không cần? Vậy ai than thở với giáo sư mình đến từ Việt Nam, mình không được ai bày cho phương pháp làm việc có hiệu quả, mình bị cô lập, mình bị khó khăn?
- Tôi không nói, không hề nói! - Kim phản ứng yếu ớt
- Phải, em không nói - Ánh mắt nghiêm khắc của Fernando ánh lên - Nhưng thái độ tự ti, cách phản ứng tiêu cực, ánh mắt van nài của em đã làm giáo sư nhận ra ngay điều đó!
- Thì sao? Thì sao? - Kim nổi điên thật sự - Ảnh hưởng gì đến anh?
Fernando bị Kim lấn đến chân giường một cách ráo riết đến mức anh phải té lăn ra. Cú ngã làm chiếc giường sắt va vào vách tường thạch cao nghe đánh “rầm”, lại thêm đôi chân mang giày của Fernando vung lên đập vào “rầm, rầm” liên tiếp. Phòng bên bọn sinh viên ré lên cười: “Chúa ơi! Chúng nó “yêu” nhau bạo liệt quá!”. Kim còn nghe rõ ràng cái giọng cao vút điêu ngoa của Thúy Hà nói bằng tiếng Việt: “Thế mới biết ai cũng như nhau hết!”. Giờ Kim mới nhận ra tình huống kỳ cục này, cô lúng túng chẳng biết xử sự làm sao. Vậy mà đôi mắt sắc sảo của Fernando vẫn không tha nhìn vào cô chòng chọc. Cuối cùng, dĩ nhiên, Kim khóc. Cô không hiểu vì sao ở Việt Nam cô vốn không phải là loại hay “mít ướt” nhưng sang đây lại dễ cho người ta thấy mình yếu đuối đến như vậy. Càng khóc Kim càng nấc to. Càng nấc to Fernando càng cười lớn.
- Anh là đồ độc... độc... độc... ác... ác... ác - Kim cố gắng lắm cũng không thể không cà lăm.
- Độc ác! Độc ác! - Fernando mỉm cười lặp lại.
- Tôi căm... căm... thù... thù anh!
- Căm thù! Căm thù! - Fernando nhại, giọng giễu cợt
- Tôi... tôi...
Kim thật sự hết biết mình phải nói gì, cô chợt nhận ra nãy giờ Fernando vẫn nằm trên giường cô, nằm một cách thoải mái không thèm cởi giày, tay chống ngay thái dương, chân bắt chéo nhịp nhịp. Còn Kim, cô đang ngồi bẹp dưới đất khóc lóc. Thật chẳng ra thể thống gì! Cuối cùng Kim cũng phải biết đứng lên và xử sự cho đúng với vai trò chủ nhà của mình. Cô lấy hết sức dõng dạc hô:
- Mời anh đi khỏi phòng tôi!
- Dĩ nhiên! - Fernando tỉnh rụi trước sự “vùng lên” của Kim - Tôi không có ý định ngủ lại trong căn phòng bề bộn sách vở và khá là bẩn thỉu này!
- Tôi... tôi...
- Căm thù! Căm thù! - Fernando nhắc, mặt đểu hết chỗ nói.
- Tôi... tôi... muốn giết anh - Kim hụt hơi.
- Giết đi! - Fernando thách, giọng giễu cợt - Ăn toàn khoai tây chiên với sốt cà chua thì lấy đâu ra sức? Học còn không đủ sức nữa là giết người! Nè, cho đấm vô người tôi nè! Đấm đi!
Kim nhìn thân thể cường tráng, cao ráo của Fernando, biết mình có đấm anh cũng như lấy trứng chọi đá. Nhưng lòng tự trọng không cho phép cô bỏ qua lời “thách đấu” này, Kim lấy hết sức bình sinh thụi một phát vô bụng Fernando và bị dội ngược lại ngay tức khắc. Fernando nhìn Kim ngã chúi ra sau, cười khinh khỉnh: “Có đau tay lắm không?”. Đến nước này Kim chỉ còn biết dậm chân khóc váng lên như một đứa trẻ bị đẩy vào chân tường. Fernando thôi không “độc ác” nữa, đôi tay rắn chắc ôm lấy vai cô vỗ về: “Thôi được rồi! Được rồi! Bình tĩnh! Rồi tôi sẽ chỉ em cách trả thù và cả cách làm sao giết được tôi nữa”.
Phòng bên bọn sinh viên đang áp chặt tai vào vách tường mỏng dính hồi hộp. Cuối cùng, bọn chúng chán nản kháo nhau “Thôi, hết phim rồi!” và tục lục ôm sách vở tản đi. Dĩ nhiên là bọn chúng lầm. Tất cả chỉ mới bắt đầu.
Từ đó mỗi sáng trời hãy còn tối đen, dù gió rét, dù mưa rơi Kim đều bị Fernando gọi điện dựng đầu dậy. Khi cô rửa mặt đánh răng xong, vừa ngáp vừa cột dây giày thì Fernando cũng vừa đến. Anh “kè” Kim chạy vòng vòng tập thể dục quanh khu học xá. Cô vừa thở hồng hộc, vừa mếu máo, vừa khóc thút thít, và vừa nguyền rủa kẻ thù đang “nâng cao đùi” chạy canh chừng đàng sau. Bắt một cô gái ẻo lả, ngại vận động như Kim phải có tinh thần thể thao thật khó vô cùng. Thế là Fernando chỉ còn cách “áp giải” kiểu này mới vời được cô nàng ra khỏi giường lúc đang ngủ ngon nhất.
Trời tờ mờ sáng, khi mấy bà già trùm đầu kín mít dắt chó đi dạo thì Fernando cũng vừa kịp cho phép Kim tự do. Anh mồ hôi ướt đẫm leo lên xe hơi chạy lên trường Đại học. Trước khi cho xe lăn bánh Fernando còn kịp dặn: “Nhớ ăn sáng cho đàng hoàng rồi lên thư viện học! Đừng ngồi trong phòng, dễ bị “hấp lực” của chiếc giường lôi kéo”. Kim gục gặc đầu “Biết rồi! Biết rồi!”, cô đưa tay vẫy, chờ chiếc xe khuất sau cua quẹo chỗ cây phong trụi lá đầu đường rồi co giò nhảy vào phòng tắm. Nước lạnh làm cô tỉnh rụi, thấy tội nghiệp “người dưng” khi không phải cực khổ vì mình. Giờ này chắc Fernando cũng đang tắm ở trường rồi vội vã thay đồ tươm tất chuẩn bị làm việc. Tám giờ rồi, chắc anh chẳng kịp ăn sáng, hình như hôm nay anh phải làm trợ giảng cho giáo sư Baddley đến tận giữa trưa.
Cuối tuần, Fernando lại bất ngờ xuất hiện lúc Kim đang áo xống xộc xệch, tóc tai rũ rượi nằm sấp trên giường xem mấy cuốn catalogue thời trang Lệ Chi cho mượn. Fernando không mặc complet, thắt cravate và khoác manteau trịnh trọng như những ngày đi làm trong tuần. Anh trẻ trung hơn với bộ đồ jean và cái áo thun trắng khỏe mạnh bên trong.
- Trời ơi! - Fernando nhìn mấy cô người mẫu đẹp rụng rời chép miệng - Còn lâu em mới có được vóc dáng “chết người” này. Thay vì lo ăn uống tẩm bổ em lại nằm bẹp xem người ta xinh đẹp hơn mình. Không thấy tức sao?
- Mắc chứng gì anh dám mạt sát nhan sắc của tôi? - Kim vừa tức giận vừa bối rối nhìn lại vẻ luộm thuộm của mình sau những phút bị “hớp hồn” trước vẻ bề ngoài của Fernando - Cuối tuần sao anh không ở nhà nghỉ ngơi đi? Cho tôi hít thở bầu không khí tự do một chút, vác mặt đến đây làm gì?
Fernando khiêu khích:
- Em làm như tôi khoái bám theo một người không-có-khả-năng-thu-hút-đàn-ông như em lắm. Em không thấy tụi sinh viên nữ bám theo tôi sao? Em đâu tới lượt!
- Anh... - Kim tức nghẹn họng - Anh có biết tôi là một người nhạy cảm lắm không? Anh dám xúc phạm tôi vậy đó hả? Anh coi chừng tôi đó! Tôi... tôi có một tâm hồn nghệ sĩ...
Fernando nhìn Kim đang đau khổ và tức giận, mắt cô long lên sòng sọc nhìn quả đáng ngại. Anh cố cười lớn nhưng đã thấy mình không nên chọc giận con gái ở cái khoản này. Fernando đành ra vẻ giảng hòa, anh lấy cây lược chỗ bồn rửa mặt ra đưa cho Kim:
- Em là nghệ sĩ hả? Vậy có gì đâu mà tôi phải “coi chừng”. Tưởng em hù “tôi là võ sĩ” thì mới sợ chứ! Giỡn chút làm gì em nổi điên dữ vậy? Thôi chải đầu đi rồi tôi “hộ tống” em đi siêu thị.
- Tại sao? - Kim ngơ ngác.
- Cơ thể con người như một cái máy vô cùng phức tạp. Em không thể làm việc tốt nếu không nạp đủ nhiên liệu. Em đã bắt đầu tập thể dục, như vậy là rất tốt. Nhưng em còn phải ăn nữa cơ thể mới khỏe ra - Fernando cười, nháy mắt - và đẹp ra nữa!
- Nhưng tại sao tôi phải đi siêu thị với anh? - Kim thắc mắc.
Fernando nhìn thùng mì gói và mấy loại đồ hộp của Kim trên kệ, lắc đầu:
- Vì em không biết cách đi chợ, không biết cách ăn uống cho đúng cách… Em muốn chết hay sao mà ăn toàn mấy cái thứ này?
Ở siêu thị, Fernando dẫn Kim đến từng gian hàng, chỉ cô cách chọn từng loại thực phẩm sao cho thật tươi mà giá không quá mắc. Anh chất đầy một xe nào trứng, sữa, thịt bò, cá, rau củ, mì ống, nui, trái cây... rồi đẩy ra quầy thu ngân. Kim xót ruột rút thẻ tín dụng và gần ngất xỉu khi thấy hóa đơn chạy ra. Fernando làm lơ vẻ mặt ngơ ngẩn vì tiếc tiền của Kim. Anh lo chất thức ăn vào xe rồi chở Kim về khu học xá. Lúc hai người khệ nệ bê hàng hóa lên phòng, tụi sinh viên nhìn chằm chặp rồi mỉm cười đầy ngụ ý. Kim cố phớt tỉnh nhưng không hiểu sao lúc nào Fernando xuất hiện cũng có mặt Thúy Hà, chị ta lầm bầm một mình bằng tiếng Việt đủ lớn cho Kim nghe: “Chàng nuôi nàng kỹ quá!”. Kim vừa ngượng vừa quạu liếc xéo Fernando vì đâu phải anh trả tiền.
- Trong một tuần em phải tiêu thụ hết tất cả những thứ này! - Fernando nghiêm túc căn dặn - Hãy uống sữa, ăn trứng và trái cây mỗi ngày. Nếu hôm nào không khỏe lắm thì ăn cá chứ đừng ăn thịt bò, khó tiêu. Phải uống cho đủ nước! Ăn uống phải đúng giờ, cấm không được bỏ bữa. Tuần sau tôi đến kiểm tra mà thấy còn dư đồ ăn thì đừng có trách!
- Tôi không quen uống sữa, cũng không thích thịt bò - Kim bực quá cãi lại - Tôi thèm cơm Việt Nam mà anh bắt tôi ăn nui và mì ống thì sao tôi nuốt vô? Nếu bắt anh phải ăn... nước mắm mỗi ngày anh chịu nổi không?
Fernando do dự vài giây rồi phán:
- Tôi không cần biết, dù thích hay không em vẫn phải ăn. Nếu thèm cơm Việt Nam thì mỗi tuần cho em ăn một ngày. Còn lại phải ăn mì ống và nui. Những thực phẩm này làm bằng lúa mạch, bổ hơn gạo. Sữa uống chưa quen thì uống ít, từ từ tăng lên.
- Tại sao chuyện ăn uống của tôi cũng bị anh kiểm soát chứ? - Kim nổi xung - Ăn theo kiểu Tây đắt gấp nhiều lần ăn theo kiểu Việt, mà còn không hạp khẩu vị nữa!
- Nếu muốn ăn cơm Việt Nam thì đừng qua đây học - Fernando ngang tàng - Ở Việt Nam thời tiết có khắc nghiệt như bên đây không? Cường độ làm việc có cao như bên đây không? Em nhìn lại mình đi, ốm nhom ốm nhách, xanh lè xanh lét. Còn dân bên đây thì sao? Cao ráo, khỏe mạnh, hồng hào. Tất cả là nhờ cái gì? Em đừng có tiếc tiền cho chuyện ăn uống, đâu phải tiền em kiếm ra, mỗi tháng tổ chức cấp học bổng rót tiền cho em đầy đủ mà. Tại sao sống ở Anh mà cứ nhân lên tiền Việt làm gì cho xót ruột? Nếu em hà tiện, tôi sẽ méc họ để họ khỏi phải hốt xác em sau mùa đông này.
Kim ngao ngán trước anh chàng độc đoán:
- Có cần phải trù ẻo tôi ác miệng đến vậy không? Tôi ghét anh kinh khủng!
- Thì cứ ghét đi! - Fernando bật cười - Thậm chí em còn muốn giết tôi nữa mà! Muốn làm được điều này em phải ăn chứ!
Tuần đầu tiên Kim tiêu thụ không hết đồ ăn, Fernando đến kiểm tra rồi nhìn cô bằng cặp mắt vừa lạnh lùng vừa phẫn nộ:
- Em có thấy ngày trời càng lạnh hơn không? Chỉ mới mùa thu thôi đó mà đã mặc cả chục lớp áo rồi! - Fernando đột ngột xấn đến lật áo Kim ra đếm làm cô không kịp phản ứng - Có muốn sống sót qua mùa đông sắp đến không?
Kim run lập cập trước vẻ nghiêm khắc của Fernando nên lí nhí ngụy biện: “Bao tử tôi nhỏ quá!”. Fernando lắc đầu: “Tôi chỉ mua đồ ăn cho một người như em cần phải ăn, tôi còn ăn nhiều hơn em gấp chục lần! Chỉ có cố ăn mà làm không được thì đòi học hành gì cho nổi. Lúc nào nhìn em cũng lờ đờ, xanh lét, run rẩy. Coi có ra người ngợm gì không? Sao mấy cô nàng đẹp đẹp đó, cũng người châu Á mà đâu có thê thảm như em dữ vậy!”.
Không muốn bị Fernando la lối, xỉ vả, đem nhan sắc cô ra đay nghiến hoài, tuần sau Kim phải nhờ tụi sinh viên ở chung nhà ăn dùm dù tiếc đứt ruột. Mãi đến tuần thứ ba Kim mới ăn được hết số thức ăn theo chỉ tiêu Fernando đề ra. Cô cảm thấy không đến nổi khó ăn theo khẩu phần Châu Âu rồi nhận ra mình không còn bị chóng mặt và xây xẩm mặt mày nữa. Cô nghĩ quả Fernando luôn có lý, tiếc là anh không biết nói dịu dàng.
Fernando luôn có những nguyên tắc của mình mà Kim luôn than trời “Thật là khắc kỷ!”. Nhưng anh đã thành công trong việc tạo cho cô thói quen tập thể dục mỗi sáng và ăn uống đầy đủ chất. Vì thế những nguyên tắc khác trong học tập thể nào Kim cũng phải theo.
- Tôi chỉ em cách lên lịch học thế này: phân bổ ra giờ đọc lý thuyết và tìm tư liệu, còn đây là khoản thời gian em làm bài tập. Sao, có ý kiến gì không?
- Không! - Kim gục gặc - Anh nói gì mà không đúng?
Fernando nén cười:
- Tôi đâu có độc tài dữ vậy! Em chẳng biết tí gì về phương pháp làm việc. Biết quản lý tốt thời gian là em có thể thành công được năm mươi phần trăm rồi!
Fernando tiếp tục chỉ đến cách sử dụng phần mềm vi tính mà Kim tưởng mình đã giỏi hóa ra còn chưa biết gì: Power Point để thuyết trình sao cho thật sinh động, Winword để trình bày các tiểu luận sao cho thật chuyên nghiệp, cách dùng những công thức tài chính trong Excel sao cho tiết kiệm được thời gian mà tiện lợi, cách đọc sách sao cho hiệu quả, cách lên mạng Internet tìm thông tin nhanh chóng, cách nhớ công thức bằng cách ghi lên các mảnh giấy nhỏ dán khắp phòng... Mỗi khi bày cho Kim một phương pháp nào, Fernando chỉ nói qua một lần. Cô phải ghi chép lại để tự mình ứng dụng. Anh dứt khoát không nhắc lại lần thứ hai. Hôm nào lỡ quên, tốt nhất Kim nên đi lang thang khắp khu học xá hỏi ai đó, chớ dại hỏi lại Fernando sẽ bị anh đập bàn quát: “Đã biết trí nhớ không tốt thì phải ghi lại chứ! Tôi ở không đi theo nhắc tò tò cho em hoài sao!”. Kim thấy thật nhức óc. Nhiều lúc Fernando chép miệng than “Bên đây tụi con nít cấp một đã được dạy cách học hiệu quả, còn em lên đến Cao học mới bắt đầu làm quen!”. Kim tự ái kinh khủng nhưng may anh cũng biết an ủi: “Nhờ tiếng Anh của em rất tốt, nếu không còn chết nữa!”. Những lúc phải “ngậm bồ hòn làm ngọt” cho Fernando “lên lớp”, cô thầm tiếc giá anh là một người thầy của mình từ hồi còn ở Việt Nam, hẳn cô không đến nổi “lù khù” đến vậy.
Hầu như ngày nào Fernando đi làm về cũng phải ghé qua khu học xá “phụ đạo” cho Kim. Lúc thì anh kiểm tra bài tập, lúc dạy cô thêm một phương pháp mới để xử lý thông tin. Có hôm đến tối mịt, hơn mười giờ Fernando mới có thể ra về. Nhiều lúc Kim muốn trêu “Anh dặn tôi ăn uống đúng giờ mà sao bản thân anh giờ này còn chưa ăn tối?” nhưng rồi không muốn “chọc vào ổ kiến lửa” nên nhịn cười nhìn Fernando khàn giọng dạy dỗ mình mà bao tử hẳn đang kêu réo nên lắm lúc phải xin xỏ “Em có thể cho tôi một ly sữa không?”. Những lúc như thế Kim thấy thật mềm lòng, cô đưa ly sữa được rót gần tràn và hào phóng cho anh thêm vài loại trái cây. Kim muốn nói một câu gì đó pha trò cho không khí vui vẻ một chút nhưng Fernando lúc nào cũng nghiêm và sẵn sàng nổi quạu. Có lẽ vì anh đang mệt mỏi quá.
Mỗi lần Fernando xách cặp từ phòng Kim ra về với cái dáng vẻ bơ phờ, Thúy Hà lại cười cợt nói với cô “Em hành anh ta xanh lè cả ra! Lúc vào đi đứng đàng hoàng, trở ra sao toàn phải đi hàng hai!”. Thoạt đầu Kim hay buồn nôn với cái giọng đĩ thõa của một người đang làm giáo viên, về sau cô tự an ủi nhờ Thúy Hà nói tiếng Anh tệ quá nên bọn Tây không biết chị ta ăn nói kinh khủng đến mức nào. Kim vẫn thường bực tức Fernando cứ bắt cô phải đóng cửa phòng để yên tĩnh tuyệt đối lúc anh đang cùng cô làm việc. Anh rất ghét cái cảnh chốc chốc bọn sinh viên lại gõ cửa lúc mượn cây thước, khi rủ đi chơi, hoặc nhiều khi chỉ giả bộ hỏi xin cái khăn giấy để tò mò nhìn vào phòng. Fernando làm hẳn một cái bảng đánh vi tính “Xin đừng làm phiền, tôi đang làm việc!” treo ngay cửa phòng Kim từ lúc anh bước vào. Chưa hết, Fernando cực đoan đến mức ra lệnh với Kim: “Chỉ khi nào em nghe chuông báo cháy mới được mở cửa ra, còn bất cứ tiếng động nào em cũng phải mặc kệ! Chính tôi cũng tắt điện thoại di động khi đang dạy em đây!”. Cái mặt hình sự của anh không những đe được Kim mà cũng dọa được tụi sinh viên chung tầng lầu. Dần bọn chúng cũng thôi không nhiều chuyện nữa.
Biết rằng Fernando luôn vì mình, thế mà khá nhiều lần Kim không cưỡng lại được sự lười biếng cố hữu. Do tối thường trằn trọc nhớ nhà và lo lắng chuyện học, cô không ngủ thẳng giấc, sáng lại phải thức sớm tập thể dục nên thường ăn sáng xong thì mắt đã nhíp lại. Không cách chi chống cự nổi, thế là đành chắc lưỡi “Ngủ vài phút!”. Leo lên giường, trùm chăn kín, ấm áp thế này, được ngủ là một hạnh phúc vô biên. Và rồi dù lương tâm vừa cắn vừa rứt trong suốt giấc ngủ đến mức mộng mị thấy Fernando phùng mang trợn má la hét ỏm tỏi “Lên thư viện học, đừng có ngồi trong phòng dễ bị cái giường quyến rũ!”, Kim vẫn không sao tỉnh được dù chuông đồng hồ đổ liên hồi. Đưa tay tắt chuông, Kim còn kịp nêu cái cớ “Ai biểu mình không biết uống cà phê... Ngủ thêm một tí... Ra sao thì ra...”.
Và cái sự ra sao thì ra đó là đến tận mười một giờ Kim mới lồm cồm bò dậy, vừa xỉ vả mình vừa vội vã khoác áo chạy ra bến xe bus để vào thư viện. Thế mà đểu, cô còn dám mon men đến phòng học có Fernando đang cho sinh viên làm bài tập. Đứng bên ngoài cửa sổ nhìn vào, Kim nháy mắt ra hiệu, thấy anh nhìn ra, cô giả bộ vươn vai, làm ra vẻ từ sáng sớm đến giờ phải ngồi trong thư viện học tập miệt mài lắm.
Sự giả dối này của Kim thật non tay so với một người sắc sảo như Fernando. Anh không thèm theo dõi cô làm gì cũng biết cô có học hành đàng hoàng trong thư viện hay nằm nhà đánh một giấc đến trưa. Cuối tuần Fernando đến, chỉ cần anh kiểm tra tiến độ bài tập, hỏi vài câu trong giáo trình là phát hiện dễ dàng Kim có “vấn đề”.
- Sao? Công chúa lười biếng? Cô đã làm gì suốt cả tuần nay mà bài tập tôi giao chưa xong, sách cũng chưa đọc, số liệu chưa tìm?
Ánh mắt Fernando nghiêm khắc đến mức Kim run bần bật và mồ hôi vã ra. Cô lí nhí:
- Em... em... em bệnh!
- Bệnh gì? - Fernando lạnh băng.
Kim cố thuyết phục:
- Em bị cảm cúm. Ngày nào em cũng bị rã rời, cơ thể em đau nhức, mắt em mở không lên, em ăn không được...
- Em chỉ có ngủ thôi! - Fernando thêm vào - Tại sao run dữ vậy? Mà mồ hôi nhỏ ròng ròng trên trán nữa kìa! Chắc bệnh thật rồi!
- Dạ, em bệnh - Kim gật đầu xác nhận
Kim chưa kịp vui mừng vì đã thuyết phục được Fernando anh đã đập bàn đánh “rầm” đầy giận dữ: “Lười biếng thì có thể tha chứ dối trá thì không chấp nhận được!”. Tiếng đập bàn cộng thêm tiếng thét bất mãn của Fernando rồi tiếng khóc rống não nùng của Kim làm thành một “tạp âm” đầy kịch tính, thu hút gần như toàn bộ sinh viên ở tầng lầu. Bọn chúng tranh nhau áp tai vào cửa và hai vách của hai phòng kế bên như những con ruồi bẹp dí bên hủ mật.
Giọng Fernando cao vút:
- Còn gì để nói nữa không? - Hu... hu... hu... - Chỉ nghe Kim khóc già.
- Em nghĩ tôi là ai? - Fernando đanh giọng - Tại sao mỗi sáng tôi phải đến đây tập thể dục với em? Tại sao cuối tuần tôi phải đi siêu thị với em? Tại sao tôi phải mất thời giờ và công sức để quan tâm đến cái sự học của em? Tại sao tôi muốn em làm việc có phương pháp? Tại sao tôi muốn em có sức khỏe tốt? Tại sao? Tại sao?
Bên ngoài, bọn sinh viên nhiều chuyện cũng nhìn nhau hỏi: “Tại sao? Tại sao?”